VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT
Phan_6
Katya tìm được cửa hàng cần tìm: La Mode Internationale. Nó nằm giữa một tiệm trang sức và một quán café nhộn nhịp. Cô đẩy tấm cửa kính bước vào và đi trên nền đá cẩm thạch trắng muốt rộng thênh thang với những sải chân kiêu kỳ mà cô hy vọng phù hợp với những thứ thời trang cao cấp xung quanh mình. Những ngóc ngách nhỏ trên tường đều được thắp sáng bằng ánh đèn đỏ, mỗi góc lại treo một chiếc túi xách tay trông giống một chiếc địu trẻ em có phần nôi cứng hơn là túi xách. Một phụ nữ bước tới và chào cô với một nụ cười gắn chặt trên khuôn mặt vênh váo mà Katya đã được hân hạnh gặp ở ngân hàng, nhưng ở đây cô thấy nó thật khó chịu.
“Xin chào quý khách.” Người phụ nữ lên tiếng. Bà ta là một phụ nữ Philippiness trung niên với giọng nói cao vút của một cô gái, nghe không tự nhiên cho lắm, màu son môi thì đỏ chót đến mức người ta khó lòng mà rời mắt được. Tấm biển ghi tên của bà ta là CHONA. “Chúng tôi có thể phục vụ gì cho quý khách hôm nay đây?”
“Tôi đang tìm một người bạn.” Katya nói. “Cô ấy đã kể với tôi về cửa hàng này từ lâu. Tôi sống cùng khu phố và nghĩ nên ghé qua sắm thứ gì đó.”
“Ồ, thật tuyệt.” Chona nói. “Vậy bạn của chị tên gì vậy?”
“Cô ấy tên là Sabria Gampon.”
Nét mặt Chona trở nên lạnh lùng, và bà ta không hề tỏ ra giấu giếm sự khinh ghét. “Sabria không còn làm việc ở đây nữa, tôi e là vậy.”
“Ổ?” Katya tỏ vẻ thất vọng. “Tôi tưởng mới tuần trước cô ấy còn làm việc ở đây.”
Chona lắc đầu. Bà ta len lén nhìn hai vị khách nữ khác phía sau máy tính tiền rồi thì thầm: “Chủ cửa hàng đã yêu cầu Sabria thôi việc từ ba tháng trước. Chúng tôi không hề gặp cô ta từ đó.”
“Ôi, trời.” Katya thốt lên. “Tôi tiếc khi nghe chuyện này.”
“Vâng.” Chona nói. “Nhưng chị đã đên đây rồi, vậy có gì khác chúng tôi có thể giúp chị không?”
“Không, không.” Katya nói. “Liệu Sabria...? Tôi hy vọng là không phải...?”
“Tôi lấy làm tiếc, tôi nhận ra cô ta là bạn chị...”
“Chúng tôi không biết nhau nhiều đến mức ấy đâu.” Katya nói. “Mà thực ra tôi không biết rõ cô ấy một chút nào.”
Chona mím môi. “Chúng tôi phát hiện ra cô ta đang lấy trộm túi xách ở kho sau.”
“Ổ không!”
“Đúng vậy đấy.” Bà ta lắc đầu. “Tôi đã biết ngay từ đầu là sẽ có vấn đề mà. Cô ta luôn đi làm muộn, và thỉnh thoảng còn nghỉ nữa chứ. Cô ta dành rất nhiều thời gian ở trong phòng vệ sinh, kêu ca rằng bị ốm. Cô ta làm việc ở đây được sáu tuần trước khi chúng tôi phát hiện ra sự việc.Người ta thực sự có thể lừa gạt chị.” Một trong hai người khách kia đang tiến về phía họ và Chona vội vàng nói: “Liệu tôi có thể giới thiệu với chị một mẫu túi xách của chúng tôi không?”
“Thôi.” Katya nói. “Nhưng cảm ơn chị nhé.”
Cô rời cửa hàng và liếc nhìn vài chiếc túi xách trông còn lố bịch hơn nữa đặt gần cửa trước. Một trong số đó đáng giá nửa tháng lương của cô.
Cô không thể gọi cho Ibrahim ở trong ô-tô hay ở nhà mà không bị em họ hay bố cô nghe được, vì thế cô ngồi lại trên chiếc ghế băng ở khoảng sân nhộn nhịp, vừa đúng lúc lời gọi cầu nguyện cất lên. Một số phụ nữbước chậm rãi về phía khu vực cầu nguyện, nhưng hầu hết khách đều ngồi trên ghế băng và uống cà phê, quên luôn việc mặc tưởng bắt buộc của giờ cầu nguyện buổi tốỉ. Ibrahim bắt máy ngay từ tiếng chuông đầu tiên. “Katya.” Ông nínthở nói. “Cảm ơn cô đã gọi.” Cô nghe tiếng xe cộ trên đường qua điệnthoại. “Cô phát hiện được gì vậy?” Ông hỏi
.“Tôi không chắc là ông muốn nghe điều này, nhưng theo mấy người phụ nữ ở cửa hàng, Sabria đã không làm việc ở đó ba tháng nay rồi.”
Đáp lại chỉ có sự im lặng và tiếng còi xe ô-tô phía xa.
“Cô có nói với họ rằng cô không đến đó vì vấn đề thị thực không?” Ông hỏi.
“Không hẳn vậy. Tôi nói tôi là một người bạn.”
“Tôi đã biết là cách này sẽ không hiệu quả.” Ông nói gần như với chính mình. “Bạn bè sẽ che chở cho cô ấy.”
“Có vẻ bọn họ không phải bạn bè thân thiết gì.” Katya nói. “Bọn họ nói với tôi là không ưa gì cô ấy ngay từ đầu. Cô ấy luôn đi làm muộn và không làm việc. Làm việc được sáu tuần thì cô ây bị bắt quả tang lấy trộm túi xách trong kho. Họ dường như không vui vẻ chút nào khi nhắc đến cô ây. Trực giác của tôi mách bảo rằng người phụ nữ tôi đã gặp ở đó không hề dựng chuyện.”
“Không thể.” Ông nói. “Chính tôi vẫn thường đưa cô ấy đi làm mà. Cô ấy đã vào khu mua sắm đó.”
“Có thể cô ấy không kể cho ông nghe về những gì đã xảy ra ở cửa hàng và cô ấy đến chỗ nào đó trong khu mua sắm thì sao? Một cửa hàng khác chẳng hạn?”
“Không thể.” Giọng ông càng kiên quyết hơn. “Cô ấy không nói dối đâu. Cô ấy đã nói là cửa hàng đó mà.”
Katya cảm thấy tiếc cho ông và tự hỏi làm thế nào mà Sabria có thể hoàn toàn đánh lừa ông đến vậy. Không quá khó khi nói dối về nghề nghiệp của cô ta, nhưng để có được lòng tin của ông, lừa dối ông một cách chủ ý - điều này dường như còn khó hơn rất nhiều. Cô nhớ người bảo trợ gần đây nhất của Sabria là sở cảnh sát Jeddah. Cô ta đã làm việc với Ibrahim ở Đội Điệp vụ. Có lẽ cô ta đủ biết làm thế nào để qua mặt người khác, nhưng nếu cô ta thuyết phục được Ibrahim tin vào những lời dối trá của mình, hẳn là ông đã phát điên vì cô ta, sẵn sàng bỏ qua những gì trực giác của ông cảnh báo.
“Tôi biết cô nghĩ tôi đã bị lừa.” Ông nói. “Nhưng tôi hiểu cô ấy. Tôi hiểu cô ấy hơn bất cứ ai. Và cô đúng. Có khả năng cô ấy làm việc gì đó khác trong khu mua sắm đó. Tôi không thể nghĩ được đó là việc gì. Nó có thể là bất cứ việc gì. Nhưng lẽ ra cô ấy có thể nói vói tôi về việc lấy trộm. Tôi hiểu điều này không có lý, nhưng cô phải tin tôi. Cô ấy tin tôi. Và tôi biết một sự thực là hằng ngày cô ấy vẫn đến khu mua sắm đó.”
“Thôi được rồi.” Katya nói. “Ông có bức ảnh nào của cô ấy không? Tôi không thể lấy được tấm ảnh nào trong hồ sơ thị thực”
“Cô đã kiểm tra thị thực rồi à?”
“Vâng.”
“Được rồi. Cảm ơn cô. Và có, tôi sẽ đưa cho cô một bức ảnh.”
Katya ra ngoài tìm Ayman trong bãi đỗ xe. Cô thấy run rẩy, và nó khiến cô bất ngờ. Chẳng có lý do gì phải choáng váng khi một người phụ nữ nói dối người tình. Chuyện có lẽ lúc nào chẳng vậy. Nhưng có điều gì đó trong giọng nói của Ibrahim rất kiên định và chắc chắn. Ông không đổ vỡ trước cú sốc Sabria biến mất; ông đang lo lắng. Ông biết có chuyện không hay đã xảy ra.
Chương 10
Jamila đứng trước cửa phòng khách. Người bà ta ngấn từng lớp mỡ chắc nịch, phần bụng, phần hông to lớn, tất cả đều lộ ra khá rõ dưới trang phục bó sát. Ở mặt trước chiếc váy mặc ở nhà với những đường thêu tinh tế, chưng hẳn một tấm vải hình vuông rất lớn với đám lông thú nhân tạo mọc ra ở những điểm kỳ quặc và tự dưng ở một góc lại dài một cách bất thường. Ibrahim gọi chiếc váy đó của bà ta là váy khỉ đột.
Trời vẫn còn quá sớm để chưng diện kiểu như thế. Nhưng rõ ràng bà ta đã ra ngoài. Bà ta vẫn đang mặc chiếc áo trùm đen bên ngoài chiếc váy. Chiếc áo phanh ra. Chiếc khăn trùm đầu cũng ở trạng thái luộm thuộm như vậy. Chiếc khăn lửng lơ ở nửa dưới sau gáy bà ta, để lộ toàn bộ mái tóc mỏng thưa thớt với màu tím ánh đỏ. Một sự kết hợp tham lam giữa cây lá móng và thuốc nhuộm màu đỏ tía từ cây hoa râm bụt. Ông tự hỏi không hiểu bà ta đã đi đâu vào một buổi sáng thứ Hai từ sớm tinh mơ đến vậy.
“Cho bố con biết đi. Cho bố con biết vị thầy tu đó đã làm gì đi.” Bà ta kéo đứa con gái lớn nhất, Farrah vào phòng và đẩy con bé về phía ông Jamila. Ông muốn đưa Farrah đến Cairo để được điều trị tốt hơn, nhưng Jamila khăng khăng rằng họ đã thử hết các phương pháp điều trị y khoa rồi và đã đến lúc phải tìm cách thức tâm linh. Một trăm nghìn riyal chỉ cho bác sĩ đã đủ để chứng thực việc Farrah không chỉ đơn giản là bị ốm, con bé đã bị ma ám. Chừng nào con ma đó còn chưa được đuổi đi, thì Farrah vẫn còn khổ sở.
“Con có thể cử động được rồi.” Farrah vừa nói vừa vung tay, xoay người.
“Vậy chuyện là thế nào con?” Farrah quay lưng lại và vén đuôi áo lên. Ông giữ phần đuôi áo trong khi cô tháo dải băng quấn, để lộ ra một thứ kỳ dị khiến ông chỉ muốn ói. Làn da mềm mại trên lưng cô đã bị tàn phá bởi một tấm thép nung. Một dường lằn sưng tấy sâu đến cả phân, bên ngoài đỏ ửng lên, ở chính giữa thì thâm tím, đang bị nhiễm trùng chỉ ngay trên phần xương hông của cô.
“Bọn họ đã làm cái quái quỷ gì thế này?” Ông hỏi.
“Đây là cách họ đuổi hồn ma đó đi.” Farrah vừa trả lời vừa quấn lại dải băng. “Bằng cách tạo thêm sự đau đớn bên ngoài, nó sẽ giúp xua tan cái đau ở bên trong. Bố có hiểu những gì con nói không ạ?”
“Con có hiểu những gì con đang nói không hả?”
“Nó có hiệu quả ạ.” Cô nhẹ nhàng đáp. Rồi cô quay qua với mẹ mình với vầng hào quang chở che của bà ta.
Ông cố chống lại cơn thịnh nộ đang phun trào, đang nhỏ từng giọi dung nham màu đen vào mắt ông khiến tất cả những gì ông có thể thấy chỉ là đống hỗn độn trong phòng.
“Đó mới chính là thuốc thực sự.” Jamila vừa nói vừa chỉ vào lưng của Farrah khi bà ta đưa con gái ra khỏi phòng.
Ibrahim không muốn phản ứng. Ông bước vào phòng vệ sinh để tắm rửa. Nước lạnh. Sàn gạch ấm. Đôi tay nóng ran vì tức giận. Tấm thảm cầu nguyện của ông gần như đã mòn trụi vì nhiều năm quỳ gối. Ông quay mặt về phía cửa ban công. Những lời nguyện cầu như tuôn trào vì vô thức, tâm trí ông trống rỗng, cố kìm nén những lời nguyện cầu thật lòng đang dấy lên trong mình, đau đớn tột cùng khi nghĩ đến điều đó. Lạy Chúa, làm ơn trả lại Sabria cho con, hãy trả lại cô ấy cho con.
Trước khi ông cầu nguyện xong, Jamila đã chờ sẵn ngoài cửa phòng khách. Bà ta đang rất tức giận vì sự im lặng của ông. Bà ta bắt đầu quét cầu thang. Và những lời nhiếc móc bắt đầu. Chuyện gì đó về việc cặp song sinh đã phải tự làm bài tập về nhà và đáng ra chúng không nên đi cùng bà đến gặp thầy đuổi ma bởi rất có thể chính chúng sẽ bị ma nhập hồn, nhưng bố chúng chẳng bao giờ có mặt ở nhà, nên còn cách lựa chọn nào nữa đâu? Nhưng chuyện đó cũng chẳng hề làm bà ta ngạc nhiên. Ông rõ ràng là một kiểu người luôn trốn tránh. Ông thậm chí còn không nhìn vào sự thực rằng con trai mình đã phải ly dị - một thứ đáng lý chỉ mất có vài giây. Phải nói câu “Tôi ly dị cô” ba lần trước mặt hai nhân chứng thì mất bao lâu chứ? Nếu có mỗi việc đó mà ông còn không làm được, thì không hiểu ông còn làm được việc gì khác?
Những lời chì chiết đó chỉ ngừng khi ông phải ngăn nó lại.
Ông đi qua ngay trước mặt bà ta rồi bước xuống nhà, ra khỏi cửa, rồi hòa vào đường phố ngột ngạt.
Khoảng hai mươi năm về trước, và vì lý do gì cho đến giờ vẫn hoàn toàn mơ hồ, anh trai Omar của ông đã vứt bỏ toàn bộ khoản tiết kiệm của mình ra bằng tiền mặt. Ibrahim vẫn còn nhớ ngân hàng đó. Nó nằm trong một khu thương mại sầm uất có bãi đỗ xe rộng lớn, thường chật cứng vì một nhà hàng gần đấy nổi tiếng với món cà ri thượng hạng. Anh trai ông đã bỏ quên ba mươi nghìn riyal trong chiếc túi nhựa đặt ở ghế trước ô-tô rồi đi vào nhà hàng. Nửa tiếng sau ông quay lại thì thấy mình đã quên không kéo kính cửa sổ xe và còn để xe không khóa nữa. Số tiền vẫn còn nguyên trên băng ghế trong khi hóa đơn lủng lẳng bên ngoài một cách mời gọi. Không một riyal nào bị mất. Thỉnh thoàng Omar lại nhắc lại chuyện đó như một minh chứng cho hình phạt chặt một bàn tay của Ả Rập Xê-út là có hiệu quả ngăn chặn nạn trộm cắp. Nhưng Ibrahim không đồng tình. Ông cho rằng sự trung thực là do sự bốc đồng muốn làm hài lòng người khác. Không may thay, sự dối trá cũng vậy. Và ngày hôm đó anh trai ông đã may mắn.
Tòa nhà của Omar nằm ngay cạnh tòa nhà của Ibrahim, trông y hệt những tòa nhà khác cùng phía đó của con đường: mặt trước bằng bê tông phẳng lỳ, bạn công thụt vào trong, những bức tường cao ở trên bao quanh một cái vòm mở. Có câu chuyện vui - tuy ngớ ngẩn, nhưng ngạc nhiên thay lại rất phổ biến - rằng hai anh em đã mua hai ngôi nhà giống nhau vì cả hai làm ở Đội Điệp vụ, nên nếu ai theo dõi một trong hai người này, thì gần như không thể phân biệt một trong hai ngôi nhà ấy.
Omar bước vào phòng khách tóc tai rồi bời.
“Vẫn nhớ lần anh bỏ quên túi tiền trong ô-tô chứ?” Ibrahim hỏi.
“Tất nhiên là anh nhớ, sao thế?”
“Lúc đó anh may mắn thôi, nhưng anh trai…”
“Đừng lại thế với anh. Anh không muốn nghe đâu. Anh chán rồi.”
“Vận may của anh sắp tận rồi.” Ibrahim nói.
“Ồ, thế à?” Omar nhướn mày.
Ibrahim nhận thấy vẻ chán ngán trên gương mặt anh trai mình. “Có chuyện gì thế?”
“Tại sao vận may của anh lại sắp tận vậy?”
“Em sẽ chuyển đến căn phòng trống của anh.”
“Lại là Jamila à?”
Ibrahim gật đầu.
Omar gầm gừ từ sâu trong miệng, nửa như cười thầm, nửa gầm ghè phẫn nộ, rồi ngồi xuống cạnh em trai. “Thành thực mà nói nhé: vận may của em với phụ nữ đã tận từ hai mươi lăm năm trước rồi.”
“Anh đâu có phàn nàn gì.”
“Anh nên phàn nàn thì hơn.” Omar lắc đầu. Hai người trở lên im lặng. Họ sắp sửa quay trở lại chủ đề quen thuộc, chủ đề trước đây từng đưa họ đến bế tắc mà những dư âm dường như đã nguội lạnh - cuộc tranh luận về những người vợ hai. Cụ thể hơn là: liệu họ có nên phá vỡ truyền thống lâu dài của gia đình là không lấy nhiều hơn một vợ hay không? Ibrahim từng thiên về việc phải bỏ truyền thống đó và đã đi tìm kiếm (Internet đã giúp cho việc này càng thêm dễ dàng). Omar thì hoàn toàn phản đối ý kiến đó, không chỉ bởi truyền thống gia đình mà còn bởi nó không hợp khuôn phép chút nào, và đó cũng là điều khủng khiếp đối với vợ của ông dù ông có ghét bà ta tới mức nào đi chăng nữa. Cuộc tranh luận của họ đã đi tới một kết cục tồi tệ, khi Ibrahim đổ lỗi cho anh trai mình đã hoàn toàn đứng về phía bà vợ đành hanh của ông - một sự buộc tội mà Omar đã đáp trả ngay. Cả hai không hề nói với nhau lời nào suốt một tuần sau đó - một khoảng thời gian không thể quên được của cả hai anh em.
Chuyện đó đưa tới một vấn đề sâu xa hơn mà họ đã ý thức được từ lâu và chưa bao giờ bàn luận; cả hai đều có cuộc hôn nhân bất hạnh và mặc dù có thể giấu giếm bên ngoài xã hội, nhưng trong gia đình điều đó lại gần như không thể.
“Em có việc muốn hỏi.” Ibrahim lên tiếng.
“Anh hy vọng không phải về Jamila.”
“Về công việc.”
Điều đó khiến Omar ngạc nhiên. Mặc dù họ đã làm việc cùng bộ phận, nhưng họ thận trọng không để công việc ảnh hưởng đến gia đình của mình. Omar chuyển đến Đội Điệp vụ khi Ibrahim vẫn còn nửa chặng đường phấn đấu để lên cấp chánh, và trong thời gian ba năm, Omar đã vượt lên trên em mình. Hiện giờ ông đã là phó chánh.
“Không phải em muốn rời Đội Trọng án đấy chứ?.” Omar hỏi.
“Không, không, em thích ở đó. Chỉ là em đnag phải lo một vụ mà em nghĩ có lẽ liên quan đến một vụ trước đây Warra đã phụ trách ở Đội Điệp vụ. Em đang băn khoăn liệu anh có thể cho em xem các hồ sơ những vụ án trước đây của Warra được không?”
“Sao em không đến bộ phận lưu trữ hồ sơ?”
“Em không thể nâng mức độ nghiêm trọng của vụ án này. Việc đó có thể gây trở ngại cho việc điều tra của bọn em.”
Omar lầm bẩm và ngồi thẳng lại. Ibrahim biết ông sắp sửa nói: Em nói dối, chuyện gì thực sự đang xảy ra vậy? Nhưng hẳn ông đã nhận ra sự hoang mang của Ibrahim, vì ông không nói gì cả.
“Em nghĩ một trong số những hồ sơ đó đã được xếp vào loại hồ sơ mật” Ibrahim nói.
Giờ thì Omar lại ngả mình về trước, mắt nhìn xuống tay. “Chuyện này là thế nào?”
“Em ước gì mình có thể nói nhưng em không thể” Ibrahim ngồi thẳng người. “Em thực sự không thể. Anh phải tin em.”
Omar nhìn Ibrahim dò xét.
“Em chưa bao giờ nhờ anh một việc như thế này.”
“Chính vậy nên mới khó hiểu…”
“Và nếu việc đó không quan trọng thì em đã không nhờ anh rồi”
Omar thở hắt ra. “Thôi được. Để xem anh làm được gì.”
Chiều hôm đó khi Ibrahim bước ra khỏi bãi đỗ xe của cơ quan thì điện thoại đổ chuông. Đó là Katya.
“Tôi đã mang bức ảnh ông gửi tôi đến khu mua sắm đó trong giờ ăn trưa hôm nay.” Cô nói.
“Tôi rất cảm kích”
“Thực ra,” cô nói, “tôi mong là mình có được tin tốt lành cho ông. Tôi đã đưa bức ảnh ra cho cả tá những người bán hàng và không một ai nhận ra cô ấy, nên tôi đã đánh liều quay lại cửa hàng cô ấy đã làm việc. Người ở đó cũng không nhận ra cô ấy.”
“Sao cơ?”
“Người phụ nữ họ biết có tên là Sabria Gampon không hề giống với người trong ảnh. Không một chút nào. Cả ba người phụ nữ ở đây đều nói đó không phải cô ấy. Thậm chí trông còn không giống cô ấy.”
“Tôi không thể tin được điều này.”
“Tôi rất lấy làm tiếc. Họ còn cho tôi xem hồ sơ xin việc của cô ấy nữa.”
“Cô có nói với họ cô là cảnh sát không?” Ibrahim hỏi.
“Không, tôi nói với họ tôi là thám tử tư đang điều tra vấn đề trộm cắp mà cô ta từng thực hiện ở một doanh nghiệp khác. Tôi xin lỗi, có lẽ tôi không nên nói như vậy, nhưng cách đó khiến họ rất nhiệt tình. Dù sao thì họ cũng cho tôi một bản sao đơn xin việc của cô ấy và tôi nghĩ chắc ông muốn xem qua nó. Có lẽ ông sẽ nhận ra chữ viết tay của cô ấy - hoặc là không.”
“Đúng rồi, tốt lắm. Cô mang nó lên phòng làm việc của tôi được không?”
“Tôi để nó trong hộp thư của ông rồi.” Katya nói.
“Cảm ơn cô” Ông đáp. “Tôi đánh giá cao sự thận trọng của cô trong việc này.”
“Tất nhiên là tôi phải thận trọng.” Cô nói. “Và còn một điều nữa. Tôi đã đối chiếu đơn xin việc với thông tin thị thực của cô ấy, và dù ai đã điền lá đơn đó thì cũng biết chính xác số thẻ căn cước trong hồ sơ xin thị thực.”
“Tôi hiểu.” Ông nói với giọng cố gắng để tập trung. “Vậy là người tự nhận là Sabria đã có quyền truy cập các thông tin nhập cư của cô ấy.”
“Đúng vậy.”
Ông ngồi trong ô-tô khoảng hai mươi phút chỉ nhìn chăm chăm vào vô lăng. Sabria không phải là Sabria sao? Có, cô ấy có chứ. Cô ấy luôn luôn là Sabria. Bọn họ đã điều tra kỹ lý lịch ở Đội Điệp vụ trước khi thuê cô ấy làm việc cơ mà. Tất nhiên cô ấy tự nhận mình là một người khác khi thực hiện nhiệm vụ, nhưng theo những gì ông được biết thì cô chưa bao giờ thuê ai đóng giả mình cả - và chắc chắn vậy. Bởi vì Sabria của ông không đời nào lại nhận công việc ở cửa hàng rồi lại lấy trộm túi xách và khiến mình bị đuổi việc trong vòng có sáu tuần, mà sau đó lại không nói gì với ông hết. Hơn nữa bằng chứng mới thu được của Katya đã củng cố giả định này; không ai ở cửa hàng đó nhận ra bức ảnh của cô. Rõ ràng Sabria đã biết người phụ nữ đó sẽ nhận công việc mà cô phải nhận, làm công việc mà cô phải làm.
Đột nhiên có vẻ Sabria không hề bỏ trốn, có thể cô tham gia hoạt động điệp viên nào đó của chính mình - bí mật đến mức cô phải lẩn tránh ngay cả Ibrahim - và nhiệm vụ đó, vì lý do nào đấy, đã xảy ra vấn đề bất trắc.
Chương 11
Bọn họ xem xét kỹ lưỡng cơ sở dữ liệu quốc gia về những người mất tích và tìm được trường hợp phù hợp với một trong những phác họa của mười tám nạn nhân còn lại. Một trường hợp không tệ. Maria Reyes. Cô này đã mất tích ở Jeddah. Ba năm trước, cô ta nhập cảnh theo thị thực hành hương tới thánh địa Mecca, và hình như đã ở quá hai tuần so với thời gian cho phép. Họ không có bất cứ lưu trữ nào về việc cô ta xuất cảnh. Cô ta đã theo một chuyến du lịch hành hương toàn phụ nữ đến từ Philippiness, có người dẫn đường. Đối với hầu hết những phụ nữ Hồi giáo ngoại quốc và đi xa một mình, những chuyến du lịch hành hương như vậy là cách duy nhất để họ đến Mecca. Theo người dẫn đường cho biết, Reyes đã biến mất hai ngày trước khi chuyến đi kết thúc. Công ty tổ chức chuyến đi ngờ rằng cô ta chạy trốn để tìm việc làm bất hợp pháp. Không ai nghe nhắc đến cô ta thêm lần nào nữa.
Ba năm là một khoảng thời gian dài để có thể lần lại dấu vết. Ibrahim ngờ rằng công ty tổ chức chuyến đi đến thời điểm này đã thay đổi nhân viên. Tuy nhiên, người đàn ông phụ trách các chuyến hành hương tới Mecca, Bengino Dimzon, vẫn nhớ Reyes. Việc một người phụ nữ biến mất khỏi chuyến đi của ông ta là một việc bất thường. Công ty đó, tên là Dar el Hijaz, đã rất cẩn thận để mắt đến những người phụ nữ độc thân: buổi đêm, các nhân viên đều đưa từng người trong số bọn họ đến tận phòng khách sạn và một bảo vệ gác bên ngoài lối vào khách sạn để đảm bảo không ai rời khỏi đó.
“Vậy làm thế nào mà cô ta trốn thoát được?” Ibrahim hỏi.
Bọn họ đang ngồi trong văn phòng của Dimzon, một căn phòng nhỏ, sáng sủa, có mùi như chất khử mùi trong ô-tô. Đó là sáng ngày thứ ba, ngay sau lễ cầu nguyện thứ hai trong ngày. Những tia nắng chói xiên qua rèm cửa hắt lên trên mặt Dimzon. “Tôi vẫn không chắc chuyện xảy ra thế nào.” Ông ta nói. “Có một điểm dừng trong chuyến đi mà chúng tôi cho phép những phụ nữ đó mua sắm những thứ cần thiết - tất nhiên là để phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Chúng tôi tháp tùng họ vào trung tâm mua sắm và ở bên cạnh họ suốt thời gian đó. Chúng tôi chưa bao giờ để xảy ra vấn đề gì trong suốt bảy năm thực hiện chuyến đi này - ngoại trừ trường hợp của cô Reyes. Phần lớn những người phụ nữ tham gia chuyến đi đều không phải người nghèo. Họ không đến đây để tìm việc làm. Họ là những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo và họ đến đây để hành hương tới thánh địa Mecca rồi trở về nhà. Chúng tôi tính phí rất cao và còn yêu cầu đặt cọc một khoản tiền lớn mà họ sẽ được trả lại khi trở về Philippines. Chính vì vậy mà ông thấy đấy, chúng tôi thường không gặp phải vấn đề gì.”
“Tôi chắc ông đã có danh tiếng rất tuyệt vời.” Ibrahim nói. “Tôi chỉ muốn biết chắc chuyện gì đã xảy ra khi cô Reyes biến mất thôi”
“À, thực ra.” Dimzon ngồi thẳng lên. Ông ta là một người có thân hình gọn gàng, nét mặt tươi vui và đôi mắt sáng lúc này đnag ánh lên vẻ ưu tư xa xăm. “Những người phụ nữ ở trung tâm mua sắm đều che khăn kín ngoại trừ khuôn mặt. Ông thấy đấy, chúng tôi muốn nhận diện họ ở nơi công cộng nên đề nghị họ để lộ khuôn mặt. Nếu bất cứ ai trong số họ có khó khăn gì với việc đó, chúng tôi đưa cho họ một dải băng nhỏ để gắn vào vai bên này.” Ông ta chỉ tay vào vai trái. “Nhờ đó chúng tôi nhận ra ai là người trong nhóm của mình và ai không. Maria cũng đeo một rải băng đó. Chính tôi là người để ý đến cô ấy, và hơn thế, cô ấy còn đứng rất gần tôi nữa. Tôi quay sang nói chuyện với một nhân viên thu ngân và khi quay lại, cô ấy đã biến mất.”
“Và ông đã ngay lập tức nhận ra điều đó?”
“Vâng. Tôi nghĩ là cô ấy lẫn vào đám phụ nữ đó. Tất cả đều đang xếp hàng chờ tính tiền. Nhưng khi tôi đi xuống cuối hàng thì không thấy cô ấy ở đó. Cô ấy chắc chắn đã tháo bỏ dải băng và lẻn đi mất. Hẳn là cô ấy đã dự tính trước việc này.”
Ibrahim có cảm giác người đàn ông này nói thật.
Dimzon tiếp tục. “Ngay lập tức tôi hỏi mọi người; chị có thấy Maria không? Không ai để ý đến việc cô ấy đi khỏi đó. Một người phụ nữ nói hình như bà ta đã thấy cô ấy đi xuống phía cuối hàng, nhưng có thể đó là một ai khác, vì Maria vẫn che mặt. Tuy nhiên bọn họ vẫn mải chuyện trò, ngắm nghía mọi thứ khi đứng xếp hàng chờ thanh toán. Liệu có nên mua cái này không? Trông cái kia có dễ thương không? Ông cũng biết chuyện thế nào rồi đấy. Chẳng ai thực sự để ý cả.”
“Không có ai khác quanh đó sao? Ý tôi là có những người lạ nào gần đó không? Có ai mà ông nhớ là không thuộc nhóm đó chẳng hạn?”
“Không có ai đặc biệt cả. Có rất nhiều người trong khu mua sắm đó. Rất đông.”
Chuyện đã xảy ra dễ dàng như vậy. Tất cả những gì cô ta phải làm là che mặt, che tay lại; chiếc áo choàng và khăn chùm đầu sẽ che kín những phần còn lại. Một phụ nữ trong chiếc áo trùm đen có thể biền mất như một cái bóng hòa vào bóng tối của ngõ hẻm. Cho dù Dimzon có phát hiện ra cô ta đi chăng nữa, thì vẫn rất khó đuổi theo. Ông ta rất dễ nhầm cô ta với ai đó, và nếu mọi người hiểu lầm ông ta quấy rối phụ nữ lạ mặt ở nơi công cộng thì sẽ có hỗn loạn.
Kể từ phút giây Maria Reyes rời khỏi khu mua sắm đó, cô ta đã trở nên ẩn danh và tự do. Phải chăng đó là một sự giải phóng? Liệu có phải cô ta đã khao khát giành lấy nó? Cô ta có thể trở thành bất cứ lao động ngoại quốc người Philippines nào, cho dù là lao động bất hợp pháp đi chăng nữa; những lao động ngoại quốc người Philippines rất được ưa chuộng. Hay sự trốn thoát bất ngờ đó chỉ đầy sợ hãi và tuyệt vọng? Theo thẩm tra y tế, Reyes đã chết gần sáu tháng sau khi mất tích. Có vẻ cô ta không bị bắt cóc vào chính cái ngày mất tích, nhưng cũng có khả năng như vậy lắm chứ. Tên sát nhân có thể bắt và giam giữ cô ta hàng tháng trời trước khi giết. Khu mua sắm đó không hề gần khu vực mà cô Cortez, nạn nhân đã được nhận diện khác, bị mất tích. Ibrahim hiểu hằng rất khó tìm ra mối liên hệ giữa hai trường hợp này. Điều duy nhất rõ ràng là họ cần nhiều thông tin hơn nữa.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian